Monday, July 27, 2015

Sợ / Chuyện Biệt Kích



Phước Long mới được tái chiếm lại. Ngày ấy ,Trung Tá Mã Sanh Nhơn là tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng. Trại B-34 LLĐB/HK lúc ấy chưa có LLĐB/VN .

Thời gian ở đây trôi qua chậm chạp, lượn lờ và nhàm chán. Trừ một số nhân viên nhà bếp, giúp việc người Việt còn lại toàn là người Mỹ. Cuộc sống an nhàn nhưng vô vị không hứng thú. Nửa năm ở đây thế là đủ, tôi muốn thay đổi.

Lên gặp Trg/tá Joseph E Roy , tôi xin chuyển đến toán A.341 Bù Đốp. Nghe nói ở trại A đời sống sôi động hơn (lương cũng cao hơn)

Yêu cầu được chấp thuận, cắp theo cây guitar, tôi lên chopper vù đến Bù Đốp đất đỏ .

Mừng vui được gặp lại nhau, tôi được Đ/úy Hannawald trưởng trại cho tôi chọn lựa, hoặc quanh quẩn ở trại làm việc với ông, hoặc đi theo đại đội hành quân. Tôi xin đi hành quân  thay vì ở trại.  và tôi sẽ được phân bổ khi đại đội đi hành quân về.

Ông nói đại đội A thiếu thông ngôn, có lẽ tôi sẽ làm việc với đại đội Nùng này.

Tôi chờ đợi những mới lạ và sống động. Đại đội còn đang hành quân, chưa về. Tôi tha thẩn quanh trai, tìm hiểu, truyện trò và ngắm nhìn lung tung.

Trong trại, anh em biệt kích phần đông là Nùng, một ít người Kinh và còn lại là người Thượng (Montagnard). Tôi mến người Thượng. Họ chân chất và thật thà. Họ không sõi tiếng Kinh. Điều này sẽ rất tồi tệ khi có chuyện, lúc ấy tôi sẽ không làm tốt công việc của mình.  Chưa chính thức nhận nhiệm vụ rõ ràng với đại đội thì điều tôi lo sợ đã xảy ra…

Chạng vạng tối hôm sau, ngoài sân bắn , lúc thử súng, một hạ sĩ quan người Mỹ còn rất trẻ (không biết tên) đã để đạn lạc trúng một thanh niên Thượng khi đi ngang qua sân bắn. Viên đạn vô tình đã cướp đi một mạng người.

Biết chuyện sẽ không hay, Đ/úy Hannawald cho gọi gấp một Cessna, bốc ngay người lính Mỹ trẻ về B-34 Phước Long, chờ phương tiện đưa đi Nha Trang.

Ông chuẩn bị việc chia buồn, tạ lỗi cũng như đền bù cho gia đình người xấu số. Nhưng mọi việc không như ông nghĩ.

Khi chiếc Cessna khuất bóng sau rừng cao su, đất đỏ còn mù mịt cuối airfield, một số đông người trong buôn làng túa ra tụ tập trước doanh trại. Những ngọn đuốc bập bùng ánh lửa, những thân người đen nhãy mồ hôi chạy rầm rập, những khuôn mặt đầy kích động đang ra sức hò hét, trên tay họ là cung, tên . nỏ, rựa, dao cồng, chiêng, phèng, mõ đua nhau khua gõ rầm trời, họ cho thấy họ sẵn sàng sống chết mạng đổi mạng.

Trai được đặt trong tình trạng báo động, bạo loạn có thể xảy ra vì trong trại cũng có nhiều biệt kích người Thượng.. Mọi việc khó lường..

Ngột ngạt ..Căng thẳng .. dễ sợ  . .

Ông Hannawald lịnh cho tôi theo và chỉ được đi tay không.

Ông bước ra với cử chỉ thân thiện khi người thân của người xấu số được dẫn tới.

Chắp tay trước ngực, ông chào theo cung cách người Việt.

Trước mặt ông, một bà cụ người Thượng gày gò móm mém, lưng còng đang vật vã, khóc lóc lu loa, nước mắt nước mũi ràn rụa, tay chân khoa múa loạn xạ.

Tiếng khóc thương của người Thượng thật não lòng, khó diễn tả nếu không phải là một nhà văn.

Thật tiếc vì tôi không làm được việc đó. Nó như tiếng rú, tiếng gọi, trầm bổng, ỉ ôi, dai dẳng, khằng khặc , nghe não nuột và bi ai làm sao !

Ông Hannawald muốn biết tương quan giữa bà cụ và người xấu số. Tôi chậm rãi hỏi bà và hy vọng bà hiểu. Đáp lại, bà cụ chỉ khóc và rú từng chập trong sự kích động của đám đông người dân trong buôn làng

Ông Đ/úy giục giã hỏi tôi những lời kể lể của bà cụ. Nào tôi có hiểu gì?

Lời thúc giục của ông cộng với tiếng hò hét vang dậy của đám đông khiến tôi hoảng.

Tôi cố gắng hiểu cụ và cuối cùng biết rằng nạn nhân là cháu của cụ. Bố mẹ nó chết hết rồi.. Đau đớn quá ! Bà cụ chỉ còn mình nó …

Mỗi lân ông Hannawald hỏi tôi là tiếng hò hét lại to hơn, sự kích động được đẩy lên cao hơn. Đám người vây quanh chúng tôi nhưng ông không nao núng hoặc sợ sệt.

 Sự tự tin của người sĩ quan LLĐB được hun đúc ở Fort Bragg của ông đã giúp tôi bình tĩnh trở lại. Cả tôi và ông đều đổ mồ hôi. Ông tháo mồ hôi vì hơi nóng của lửa đuốc, của hơi người. Tôi đổ mồ hôi vì nóng và vì sợ hãi.

Cái sợ này khác hẳn với cái sợ trước lằn tên mũi đạn. Xông trận, sống chết có số. Hơn nữa, lằn ranh địch ta rõ nét. Đối mặt, ta chậm bóp cò ta tiêu. Mi chậm bóp cò mi ngủm.

Vậy thôi ! Nhưng, giờ này ở đây… trước mặt tôi không phải quân thù. Tôi đang ở phía  người bị lên án. Chúng tôi có thể lãnh một loạt cung tên, một loạt vết rựa, dao và đủ thứ giận dữ man dại đổ lên đầu, lên người.  Trong khi, chúng tôi lại không có vũ khí trên tay để chống trả. Nhưng nếu có , chắc gì tôi dám xả súng vào đám người người dân vô tội kia ? Nếu tôi chết trong hoàn cảnh này thì đau quá ! Chẳng fair tý nào

Vòng người xiết chặt hơn, tôi có thể cảm nhận qua cái nóng của đuốc, của mồ hôi người, mùi da khét nắng lẫn hơi thở dồn dập, giận dữ, xô đẩy của đám đông. Không khí ngột ngạt. Bà cụ bỗng  ngã qụy xuống đất ngất xỉu vì mệt và ngộp thở. Tiếng hò hét to hơn, tiếng cồng chiêng điên loạn om trời cùng tiếng dậm chân thình thịch, tôi nghĩ chắc chết vì sẽ có bạo động nếu không biết kềm chế ..

Nhưng, mọi việc dường như chựng lại ..tất cả im bẵng khi ông Hannawald quỳ một chân xuống đỡ lấy bà cụ. Rút mu soa từ trong túi, ông lau nước mắt, chùi nước mũi dãi cho bà cụ.  Đám đông dõi nhìn việc làm của ông, lẳng lặng ẵm bà cụ lên tay, ông chầm chậm đưa bà vào trại, hướng về phía trạm xá .

Ông Hannawald rất nhỏ con so với người Mỹ bình thường. Ông chỉ cao khoảng hơn thước sáu một tý. Chân thấp chân cao có lẽ do bị thương .

Hình ảnh người Đ/úy Mỹ nhỏ con, khập khiễng ẵm một bà cụ Thượng trên tay, lặng lẽ bước qua cổng trai khi người lính gác cổng đứng nghiêm chào thật xúc động. Không còn sự kích động nào, tiếng hò hét nay chỉ còn tiếng xì xào từ đám đông. Sự xúc động đều giống nhau nơi con người. Vài người người thân của bà cụ theo sau ông Hannawald đi vào Dispensary.

Ông Hannawald muốn bà cụ  được chăm sóc thật tốt. Cái TÂM của ông được thể hiện rất rõ. Anh em biệt kích thẳng người  khi ông bồng bà cụ bước qua.

Bên ngoài cổng trại, đám đông tản mạn ra về. Tôi tạm thở phào…

Những y tá người Kinh hiểu tiếng Thượng, họ giúp tôi giải thích cho ông. Ộng gật gù lắng nghe vẻ xúc động ..

Việc mai tang được tiến hành theo nghi thức của buôn làng với sự trợ giúp của trại.

Gia đình người xấu số được bồi thường.

Hành động của ông Hannawald phần nào hóa giải phẫn uất của buôn làng. Họ đã tha thứ .

Ông đứng ra nhận trách nhiệm cho thuộc cấp và tỏ ra hối tiếc về việc không hay.

Nếu không phải là ông, tôi nghĩ  mọi việc chắc chắn sẽ rất tồi tệ.

Mọi việc trở lại bình thường

Phần tôi,  tôi vẫn sợ.. Tôi SỢ lắm. Sẽ còn nhiều việc xảy ra vì ngôn ngữ bất đồng và điều đó sẽ khiến tôi không làm tốt công việc của mình. Suy nghĩ cạn cùng, viện cớ người nhà đau, tôi xin về phép . Được chấp thuận, bỏ lại cả cây đàn guitar, tôi gói ghém đồ lên chiếc C-123 chuồn thẳng. Tôi quay về B-34 và ở lỳ không dám về Bù Đốp nữa.

Bái bai Bù Đốp !!!   Bái bai Bye  A-341  !!! Tính ra , tôi ở Bù Đốp mới chỉ  mấy ngày.

Khi biết tôi không quay lại, ông Hannawald đã “Phắc” và “Cà chua” om sòm ! Sau đó , nghe nói ông đã tử trận trong một cuộc hành quân không xa trại lắm và ông được vinh thăng Thiếu tá.

Ít giòng viết về ông thay nén nhang tưởng nhớ đến người quân nhân Hoa Kỳ nhân hậu vì Tư Do của đất nước Việt Nam tôi , ông đã hy sinh.

Nghiêng mình kính cẩn vĩnh biệt Thiếu Tá HANNAWALD  C.O Det A-341

 Trước khi về làm C.O của  Bù Đốp, ông Hannawald là X.O của B-34 Phước Long. Thời gian này ông còn là Đại úy và tôi cũng đã được làm việc dưới quyền ông

Tôi trở lại trại B-34  sống cuộc sống nhàm chán, buồn tẻ..

                                                                                        

Saigon 15 tháng tám 2013


DSCĐ Đinh Đỗ Chung

Dược Sư Cao Đẳng

Dân Sự Chiến Đấu

Để mỹ miều hơn ta gọi : Biệt Kích Quân hoặc Sờ Cu 
(SCU=Special Commando Unit)

Lôi Hổ Nguyễn Cao Vĩ - Nói và Hứa



Người đưng trước microphone Tr/Úy HY râu, người đang khom khom (không phải ngồi) là Tr/Úy Nguyễn Cao Vỹ


Chỉ một lời nói hoặc một lời hứa đôi khi cũng làm ta nhớ  đến ai đó.
Tôi muốn nhắc đến Trung Úy Nguyễn cao Vỹ và Đại Úy Đoàn kim Tuấn.
Tôi là một Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) và là thông ngôn (interprete) Tiếng Tây đọc nghe giống như “anh nói phét”. Tôi làm việc cho Trung Tá Snell (người da màu, cao nghệu) CO của FOB#1 Phú Bài.

 Công việc văn phòng rất nhàn nhã nhưng bị bó chân quanh quẩn lâu ngày trong trại khiến tôi ngán ngẩm, tôi xin qua làm việc cho Chỉ huy trưởng Tiền Doanh 1 lúc ấy là Đại Úy Đoàn kim Tuấn (Tuấn con) .
Là người miền Nam, ông ăn nói từ tốn, thích dùng câu chữ bóng bảy dạy đời.
Dáng người mảnh dẻ, đi đứng khoan thai, ông thích hợp trên bục giảng. Thật khó tin khi nghe ông từ TĐ 1/ SĐ Dù phái qua.
Những ngày Chủ Nhật, ông thường ra Huế chơi.
Tôi được ông tin cẩn nhưng không được ông ưa.
Có lẽ vì tôi có họ hàng xa với Trung úy Phạm văn Hy (Hy râu) Chỉ huy Phó của ông.
Ông ghét Hy râu vì là “thằng bắc kỳ”. Tôi bị lây.
Là một Đại úy trẻ, đẹp trai nên nhiều em mê nhưng ông là người chung thủy với vợ.
Ông quen cô Thu, người đẹp ngõ Nam Long (cầu Bạch Hổ đi thẳng qua).
Cô để tóc thề, nhỏ nhắn , chúm chím luôn miệng “anh Tuẩn..anh Tuẩn”.. chân nhảy chim sáo mỗi khi  ông đến . Một hôm ông ngủ lại nhà cô, trên giường chỉ có hai người. Sáng dậy, cô vẫn nhí nhảnh. Qua nét thơ ngây, tôi biết …ông yêu nàng như yêu một bức tranh đẹp. Chính ông cũng thú nhận như vậy. Platonique !
Còn một tháng nữa là Tết Mậu Thân.
Nhớ bạn bè, tôi lên gặp ông và xin đặt cọc được về phép Tết 07 ngày. Ông nói : “Được , tôi hứa với chú !” Lòng vui rộn rã  tôi viết thư báo tin cho bạn bè : Tết này tao sẽ về.
Ôi  Saigon, dancing Tự Do với các em Minh Sơn, Thu Hương, Thanh Thúy “tàu”, Thu “lai”.. Olympia với Kiều Chinh, Bích Ly . Mỹ Phụng với các em Trang, Thủy và cả đám bạn bè Quý lỏi, Triển, Tuấn hô, Chính đang chờ đợi.
Còn mươi ngày là Tết. Tôi chỉnh tề, chắc mẩm, lên gặp ông Tuấn để lấy phép. Thật không ngờ, tôi bị ông từ chối một cách lạnh lùng: “Không đi đâu cả, ở lại trại !” Một chén nước lạnh hắt vào mặt .
Cảm xúc khó diễn tả, nghẹn ngào, uất ức, ngỡ ngàng.
Vâng, thưa  Đại Úy ! Nghèn nghẹn trong cổ , tôi nghiêm chào và thất vọng ra về.
Những cây mai (trồng dọc bên Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa) có hoa lác đác nở. Tôi kéo cao cổ áo Field Jacket cho bớt lạnh, rút điếu Pall Mall ra đốt. Bật quẹt Zippo đến mấy lần mà cũng không cháy…gió cuối Đông quái ác cả với tôi. Vò nát điếu thuốc, tôi về phòng buông mình xuống giường chán nản.
Chỉ ít ngày nữa là giỗ ông Táo…
Tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn. Tại sao ông làm vậy ? Hay ông giận vì có lần đến thăm nhà ông, gặp vợ ông tôi buột miệng: Chào chị Thu …
Không lẽ ??
……………………………………………………………………………………
Tết Mậu Thân , Tiền Doanh 1 Phú Bài.

Ầm …ầm ..ầm …Chíu chíu..Ùng Oàng…
Việt Cộng pháo kích lung tung, vô tội vạ, bừa bãi không có mục tiêu rõ rệt !
Toàn trại được lệnh bỏ sam, ra ngoài vành đai tuyến phòng thủ.
Đêm đó, trại lãnh mấy quả nhưng chưa biết chỗ nào. Hỏa châu đầy trời, đại bác ì ầm, súng nhỏ ròn nổ gần xa.
Đang nằm căng mắt nhìn qua lỗ châu mai trong hầm trú ẩn tôi nghe lao xao và có tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ?
(George là tên mà người Mỹ gọi tôi khi cần giúp.) Tiếng gọi vẫn ý ới xen lẫn tiếng súng đại liên nổ ròn xa xa và tiếng ì ầm của pháo binh ta và hỏa tiển địch rơi vãi. Nhìn về phía Huế, những ánh lửa chớp sáng liên hồi.
Nhìn ra, tôi thấy Trung Úy Vỹ, Toán trưởng toán đặc biệt Lê Lợi (tất cả toán viên đều là ARVN, không có BKQ, đi công tác toàn xử dụng AK47) đang cùng đi với Trung Tá Snell. Tôi trèo lên, nghiêm chào . Hỏa châu lốp bốp nở sáng trên trời,  tôi thấy ông Snell lêu nghêu, đen bóng tương phản với ông Vỹ nhỏ con, trắng trẻo trông rất thư sinh mà tôi mắc cười.
Phong phanh trong chiếc áo nhái (áo lót của QĐ Hoa Kỳ) màu rêu,vai choàng khẩu AK47, ông Vỹ ngắn gọn : “ Cả hai ông Trưởng, Phó đều đi phép và kẹt lại Saigon, tôi là sĩ quan VN cao cấp nhất còn lại, Trung Tá Snell lên kế hoạch cho trại, do đó tôi cần thông dịch viên.”
Tôi không gần ông Vỹ nhiều như các ông Tuấn, Hy. Ngày ông về trại, tôi nhớ ông đã gặp chuyện với ông Hy. Ông ở bên BĐQ chuyển qua, đến trình diện ông Tuấn. Hôm ấy có mặt ông Hy. Ngỡ là đồng cấp Trung Úy, ông Vỹ sôi nổi anh anh tôi tôi với ông HY (thật ra ông Vỹ chỉ muốn chân tình, mộc mạc với đồng cấp . Ong Vỹ có tính cách chân chất,  mộc mạc đáng quý của người Nam bộ ) Nhưng ông Hy  nghiêm mặt thẳng thừng: Trung Úy phải gọi tôi là Trung Úy và dạ, thưa cho đúng mực vì tôi là Trung Úy Chỉ Huy Phó ..hiểu chưa ? . Ông Vỹ choáng váng, sượng sùng : Vâng, thưa Trung Úy !
Quả thật, ông Hy quá đáng. Cũ hù mới . Ông Tuấn hòa dịu nhẹ nhàng : Thôi đi ! Tôi bảo thôi đấy…
Từ hôm ấy tôi đâm ghét ông Hy và mến ông Vỹ. Ông vui vẻ, thẳng thắn chẳng khác  ông Trung Úy Lê Minh (Minh đen) vậy. Nghe ông Vỹ kể chuyện, bất cứ chuyện gì cũng thấy sôi nổi, ngay cả chuyện cái áo lạnh màu xanh, trắng mà người nhà của ông từ Canada gửi qua, ông cũng sôi nổi về những kỷ niệm với người gửi chứ đừng nói chi đến chuyện ông kể lại những chuyến đụng độ trong rừng. Ông hào phóng với nụ cười , do đó mọi người đều mến ông nhất là khi ông cười có thấp thoáng chiếc răng niền vàng. Tôi thấy lạ với ông Trung Úy BĐQ trắng trẻo, roi roi người có dáng thư sinh mà lại nhập qua đơn vị Lôi Hổ này. Tôi thầm nghĩ , ở nhà chắc công tử này ẻo lả lắm. Tôi lầm !!! Lầm to !
Vói tay lấy cây CAR15 , tôi bước ra theo ông Snell và ông Vỹ. Cao lêu nghêu nhưng nhanh nhẹn, ông Snell nhảy qua những giao thông hào dễ dàng. Nhỏ gọn như thư sinh nhưng ông Vỹ chẳng thua kém, ông cũng phóng qua hào, băng băng trên nóc những hầm trú ẩn. Còn tôi chậm rãi theo sau. Đến những nơi thấy không vừa ý, ông Snell trao đổi với ông Vỹ… tôi dịch lại và ông Vỹ ôn tồn nhưng sắc nét với anh em BKQ: “ Trần thấp và mỏng quá, các anh phải đắp thêm bao cát “.. Các anh nên thế này… thế khác.. Có lúc ông Vỹ dừng lại truyện trò với các anh em BKQ sau đó bước nhanh theo Trung Tá Snell và đề nghị cấp thêm nhu cầu mà anh em BKQ muốn. Tôi cảm mến vị sĩ quan trẻ này. Những ngày này ông lăng xăng khắp nơi trong doanh trại, tìm hiểu, dặn dò . Vì cắm trại 100%, không mua được đồ tươi sống, phải ăn toàn đồ hộp  nên ông cẩn thận dặn dò Trung sĩ Tốn, người phụ trách nhà ăn của Toán nên thế này, phải thế khác. Tôi phát mệt với sự chu đáo của ông . Vì mọi nhận định của ông tôi đều phải dịch lại với ông Snell và ngược lại. Tôi cũng không được nghỉ nhiều.. Mệt chẳng kém
Những ngày Tết không có Tết này, Phú Bài lạnh cóng. Đang co ro trong hầm với chiếc Poncho linen màu hoa dù, mắt căng ra qua màn đêm bỗng nghe tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ? Tiếng ông Vỹ từ xa. Nản quá, lại có chuyện nữa.. Tôi miễn cưỡng: Thưa Trung úy, tôi đây… Tiếng hỏa châu lốp bốp nổ trên trời, qua ánh sáng nhá nhem tôi thấy Trung úy Vỹ sôi nổi: Lẹ lên !..Chung , có chuyện cần xong lần này tôi thưởng cho cậu.. tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn , tôi hỏi lại:  Có quà ư ? Trung úy hứa nhé ? ra Huế ngủ đò hén? Ông nghiêm mặt : Tôi chỉ nói sẽ thưởng, nhưng tôi không hứa . Đi mau theo tôi… Đến nơi, té ra chẳng có gì quan trọng.. vài anh em BKQ ở đại đội trấn gần cổng trại vì quá lạnh, họ tháo phá những tấm lát giường để đốt sưởi ấm, HSQ an ninh trưc trại người Mỹ không hiểu nên có chuyện. Trung úy Vỹ kịp đến và tôi giúp ông giải thích.
Ông Vỹ luôn lăng xăng đây đó giải quyết việc trong trại những ngày vắng Chỉ huy trưởng, thiếu Chỉ huy phó. Lời ông nói, việc ông làm ông đều được ông thực hiện trọn vẹn. Tôi quý ông Vỹ và nhanh chóng quên chuyện ông đã nói gì ..


 Mấy ngày sau, ông Hy từ Sàigòn ra . Ông Hy cho đào một hầm CP (command post) đặt máy truyền tin để báo cáo về Sở Liên Lạc. Hạ sỹ Thương và một HSQ nữa (không nhớ tên) hằng đêm ngồi quay máy truyền tin đầu bò. Lúc ấy, ông Hy, ông Vỹ, Trung sỹ Vang, Trung sỹ Phồn và tôi cùng chơi Phé sát phạt nhau. Ngoài kia , đêm đen lạnh giá..trong hầm chúng tôi vẫn ồn ào tố Phé nhau. Ông Hy có cái máy AKAI cầm đi chuộc lại mấy lần trong đêm. Tình chiến hữu luôn đằm thắm… ông Vỹ lâu lâu bỏ ra ngoài đi vòng quanh trại thăm hỏi, truyện trò, phì phèo thuốc lá cùng anh em BKQ.
Mấy ngày sau ông Tuấn mới từ Saigon ra.
Chẳng có gì lớn lao sau đó, trừ một việc khiến tôi buồn. Tất cả các sam trong trại đều nguyên vẹn trừ sam của các Toán cháy đen vì trúng hỏa tiễn của VC. Không còn gì ngoài nên xi măng và những tấm tôn xạm khói. Tôi nhớ như in về những lá thư, những bức ảnh của Vân, người tôi yêu, lần cuối cùng đọc xong tôi cất trong ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc. Giờ đây trên nền hoang tàn, chẳng tăm tích gì còn lại.
………………………………………………………………………………

Mọi việc dần trở lại bình thường khi VC bị đánh lui, Huế được tái chiếm. Người vui vì được trở về nhà, người buồn khóc thương cho người thân bị VC sát hại. Nhưng Huế tang thương quá, Huế điêu tàn đến buốt ruột. Bao nhiêu gia đình bị mất mát người thân. Cửa nhà nát tan. Nhà thờ, đình chùa cũng thế. Đạn bom đã cướp đi mọi thứ.  Huế điêu tàn. Trong trai có nhiều nhân viên dân chính bị VC lại tận nhà sát hại. Hình như gia đình bên vợ của Đại úy Tống hồ Huấn cũng không tránh khỏi. Tất cả chỉ biết ngậm ngùi xẻ chia, nhìn nhau ái ngại. Biết nói gì !
Một hôm, Trung úy Vỹ từ Saigon ra, gọi tôi đến và nói: Quà của Chung đây ! Ngạc nhiên đến ngớ người. Tôi nhìn tờ giấy dàu vàng cuộn tròn và cái hộp vuông bé xíu như hộp quẹt. Ông nhắc: Mở ra đi ! Tôi nhíu mày chầm chậm mở tờ giấy: Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng. Tên họ đầy đủ của tôi.. bên tay kia là cái hộp nhỏ đựng mề đai . “ Tôi có làm gì xứng đáng ?” “Có đấy” Tôi nhận quà từ tay ông Vỹ lòng nhiều cảm xúc.
Tôi thấy ngượng nhưng không thể nào từ chối ông Vỹ. Tôi rất trang trọng nhưng không bao giờ đeo mề đay ấy. Trong thẳm sâu, tôi thấy ngượng nhưng tôi hiểu ông Vỹ muốn gửi gấm gì ở tôi. Tôi nhớ lại lới ông: Tôi nói chứ tôi không hứa .
Chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Lời ông Tuấn hứa và lời ông Vỹ nói.
Cám ơn Đại úy Tuấn và cám ơn Trung úy Vỹ.
Nếu ông Tuấn không hứa thì lời nói của ông Vỹ cũng chả có ý nghĩa là bao.
Nếu ông Tuấn giữ lời hứa thì tôi không có dịp để hiểu biết về ông Vỹ.
Lời hứa của người ngồi bàn giấy
Lời nói của người xông trận


Tiền Doanh một chuyển trại về CCN/Đà nẵng. Chiến đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh. Trại nằm dưới chân núi Non Nước, sát bờ biển .
Tôi làm việc dịch thuật huy chương dưới quyền Đại úy Trần lưu Huân sau lên Thiếu Tá. Ông Hy lên Đại úy và làm bên Ủy Ban Hỗn Hợp Quân Sự Bốn Bên
Ông Vỹ lên Đại úy và làm bên phòng Hành Quân ở TOC nhà đen. Ông Tuấn về Sở lên Thiếu Tá
Tôi và ông Vỹ vẫn thăm hỏi nhau, có lần uống bia nữa. Thi thảng thôi !
Ong Hy ở xa về có tặng tôi một bê rê đỏ hiệu Plein Ciel (mũ đúc của Pháp).
Một tối, đang hát hò trong đám có cả ông Hy, bỗng nghe tin ông Vỹ bay Covey, máy bay  trúng đạn địch rơi tan xác.
Căn phòng bỗng lặng. Mọi người nhìn nhau không nói.
Ông Hy buông cuốn tập nhạc sững sờ. Tôi ngưng đàn, cổ họng khô đắng.
Chúng tôi ai nấy về sam của mình. Lòng trĩu nặng tôi ngoái nhìn ông Hy. Có giọt nước long lanh nơi khóe mắt của ông râu. Ai bảo Lôi Hổ không biết khóc ? Sóng biển vỗ bờ nghe như tiếng gào..



“Tôi nói chứ tôi không hứa”… Nhớ lại lời ông Vỹ .
Hai động từ Nói và Hứa không liên quan với nhau nhưng với tôi chúng mang nhiều cảm xúc mỗi khi phải dùng tới.
Nguyện xin linh hồn cố Thiếu Tá NGUYỄN CAO VỸ yên ả trên cõi vĩnh hằng.


Ở bên VN này, mỗi khi đi ngang qua Sở cũ, tấm bảng viết Trại NGUYỄN CAO VỸ không còn nữa, nhưng chúng tôi những người biết anh thì không bao giờ quên anh được. 

Lần đầu tiên kể về một chuyện trong đời Lôi Hổ .






Vinh Danh Kingbee PD219 và Lôi Hổ Nguyễn Cao Vĩ


Đại Úy Nguyễn Cao Vĩ đang khom lưng
Trong cái gọi là "Chiến tranh ngoại lệ". Sự cải danh xưng là điều cần thiết ... Từ những trại được gọi là FOB (Tiền doanh) đến CCN (Nhân viên kiểm soát Bắc) và nay cải danh là TF1AE (Lực lượng Đặc nhiệm 1). Người  Mỹ bắt đầu chuyển giao phần nào lực lượng cho Nha-kỹ-thuật. Đơn vị phụ trách tình báo quân sự chiến lược của  QLVNCH. Hai toán Thám-sát đầu tiên Thăng-long và Bắc  bình. Nay thêm bốn toán nữa được chuyển giao với tên gọi mới là Hải-điểu, Hải-sơn, Hải-long, Hải-yến, Hải-sư, Hải-vân... Đại-đội B người Thượng cũng được chuyển giao. Trại còn lại hai mươi lăm toán thám sát và Đại đội A (Người Nùng và Miên) Vẫn do người Mỹ trực tiếp chỉ huy...Toán tôi Thăng-long được bổ sung quân số và đổi tên thành Hải-sơn. Thiếu úy Bửu Chính đi Kontum nhận lãnh nhiệm vụ mới. Thiếu úy Phạm ngọc Điệp thay thế làm toán trưởng, Trung sĩ Trần Quang, toán phó cùng sáu Biệt kích quân (Special Commando Unit)... Toán chúng tôi được lệnh về Long thành (Trung-tâm-huấn-luyện Biệt-kích) thụ huấn khóa Nhẩy dù.  Năm ngày phép sau khóa học Nhẩy-dù. Sài-gòn với những đường phố hoa lệ. Cái sang trọng từ mọi nơi...Khách sạn, quán xá, cà phê, nhà hàng, rạp hát.v.v. Thảy đều mang tính khác thường. Chúng tôi như choáng ngợp bời sự sa hoa, sắc mầu...Giao kết mỗi người 5000 đồng cho năm ngày phép (giá trị bằng một tháng lương người lính quân dịch độc thân). Tám người trong toán. Như những anh Mán rừng lên tỉnh, cuộc chơi cũng chỉ ở cấp xã vì túi tiền có hạn. Nguyễn duy Châu luôn phải tính toán trước những đề nghị này kia... Từ những nơi xa lạ, tụ nhau trong một nhà và cùng nhau chơi một trò chơi tạm gọi là cuộc đời... Ngày mai sẽ ra sao, ai biết?. Cuộc sống này về đâu?. Ai biết và tương lai nào cho ta... Mù mịt, chẳng cần biết!? Những con bạc cuộc đời vẫn dửng dưng chạy theo số phận. sống không cần ngày mai. Chết là cõi đi về... Cái khóa nào của thân phận con người... Ôi chỉ có Thượng-đế biết ! Ta chỉ là sản phẩm của Chúa... Vậy tùy vào cuộc chơi của Chúa... Trong chiến tranh quả thực nó đẻ ra lắm thứ đời thường. Đứa bé tập đi muốn vững chãi phải té ngã nhiều lần...Tới đây, an ủi một điều cái té của cuộc đời hôm nay sẽ mang lại kết quả tốt đẹp cho ngày mai. Năm ngày phép cho những đêm tình tạm bợ, bia bọt thâu đêm, suốt sáng. Cái thứ mùi son phấn, bia men hiển nhiên không thể thiếu. Nó như tô điểm đậm nét hay là gia vị của cái chơi mà theo sau phải là chữ bời. Những ngày phép qua mau, trình diện trả phép tại Sở liên lạc (Đơn vị chỉ huy) Nằm sát bên Sân vận động Quân-đội... Khoảng mười giờ sáng. Leo lên chiếc C123 (Blackbird) về lại Đà-nẵng.
Tiếp theo sau những ngày tháng của đời lính Biệt-kích. Hết huấn luyện rồi lại hành quân. Chương trình hoạch định và chỉ huy vẫn trực tiếp do người Mỹ đảm nhiệm...Toán Hải-điểu ở sát cạnh toán tôi vừa phải bổ sung. Chuyến xâm nhập vừa qua bốn chết một bị thương. Toán trưởng Thiếu úy Nguyễn Dứa tử trận. Cũng may toán bị địch theo dõi và tấn  công ngay trên bãi đáp triệt xuất. Đoàn trực thăng rước toán can thiệp kịp thời. Bốc được toàn bộ toán về.
Đêm nay, từ khu cấm (Isolation). Toán chúng tôi được đưa ra phi trường Đà-nẵng. Trời lạnh lẽo, tay da xe lại, môi nứt nẻ. Chiếc C130 của Thủy-quân-lục-chiến Mỹ đang đợi. Cùng đi có một Trung đội Thám báo Mỹ. Yên vị trên máy bay, nhìn những ánh mắt của các binh sĩ Mỹ vẻ ngạc nhiên, thèm thuồng, nể nang trước sự trang bị hành quân của chúng tôi. Nhất là chỉ với bốn người...Họ cứ nhìn chăm chăm vào những cây súng Car 15 hay dây đai câu, găng tay đen...Đặc biệt không nón sắt. Trong quân đội họ biết chúng tôi đang phải thi hành nhiệm vụ hiển nhiên là trên mọi người lính... Máy bay đáp xuống phi trường, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Xe đón chúng tôi đến Căn cứ xuất phát 1- Phú-bài. Đã ba ngày qua, nằm chờ thời tiết. Những chiếc Kingbee cứ sáng đến chiều về... Hôm nay trời hênh nắng, nhưng gió lạnh vẫn buốt da thịt. Thiếu tá Phát (Vương vĩnh Phát) Sĩ quan điều nghiên không thám, đến gọi Thiếu úy Điệp và Trung sĩ Quang lên phòng thuyết trình không quân.
Do tính đặc biệt của mục tiêu, toán được khuyến khích đi bốn người, tuy ít nhưng êm ả, dễ lẩn trốn... Nhiệm vụ chính thám sát và phát hiện chỗ đặt khẩu phòng không loại mới nhất 100 ly mà cả đến F4 hay F100 cũng phải kiêng dè...Điều đáng nói là sau bao lần không kich. Khẩu phòng không ấy vẫn bình thường hoạt động lúc ẩn lúc hiện...Theo thuyết trình sáu chiếc Kingbee sẽ đưa chúng tôi bốn người vào mục tiêu. Sáu chiếc Kingbee sẽ đáp đất bằng sáu bãi khác nhau. Chỉ có một chiếc là thực sự có toán nhẩy...Covey chiếc OV10 đã bao vùng từ sáng. Báo về thời tiết đã cho phép. Sáu chiếc Kingbee nổ máy, trong lúc hai Cobra và hai Huey Gunship đang vòng chờ phối hợp...Gio lạnh và sương găng bay tạt vào khung cửa, trực thăng lên cao, những đám mây trắng loang lổ dưới kia, ánh nắng chả đủ sức sua đi cái lạnh và mây mù bay lãng  đãng...Núi cao sừng sững trước mặt. Dãy Trường sơn xanh thẵm, phía tà, phía hữu, núi nối nhau chạy dài không dứt...Băng qua và bỏ lại rặng
núi cao. Trực thăng đang trên lãnh thổ nước Lào. Covey và bốn trực thăng võ trang đang bay tầm thấp. Sáu chiếc Kingbee dần xuống quần đảo xác định bãi thả, mây mù bay bay loang loáng dưới ánh nắng yếu lan tỏa khắp núi rừng...Trực thăng võ trang không dọn bãi như thường lệ mà chỉ vòng ứng chiến phía trên. Hai chiếc Kingbee tách ngang đáp dần xuống đất và cứ thế tuần tự, sáu trực thăng đã đáp sáu nơi an toàn...Chiếc chở toán tôi xuống áp chót, đổ chúng tôi sát bìa rừng...Chỉ tích tắc toán đã biến vào rừng...Di chuyển thật nhanh, tôi gọi điện báo an toàn.
Núi rừng trở lại cái bình thường của nó, lạnh lẽo âm u đến khó chịu. Băng ngang con suối thấy toàn đá. Những chú cá thập thò kẽ đá nhìn chúng tôi xa lạ. Khu rừng rậm rạp cây cao...Châu dẫn đầu cứ phải lum khum tìm đường. Muỗi vo ve đâm sầm cả vào mặt, dưới chân đàn vắt uốn éo tìm mồi. Thoa vội thuốc trừ muỗi vào mặt, cổ và tay. Toán tạm nghỉ chốc lát...Một tiếng súng nổ chát chúa thật gần đã làm chúng tôi giật bắn người. Đứng lên tẽ sang hướng khác, di chuyển chậm, dò từng bước...Địch đang truyền tin và kiếm tìm từ bãi đáp xâm nhập chăng? Băng nhanh qua con đường rộng khoảng hai mét, nhìn dấu chân trượt mới mẻ, tôi rợn cả người...Có tiếng ai đó húng hắng ho sau lưng. Tôi bảo Trung sĩ Quang gài lại trái mìn M14 để xem có  phải bị theo dõi rồi hay không và ra dấu đi thật nhanh tránh nơi nguy hiểm này. Vẻ yên ắng, an tâm phần nào bên gốc cây để ăn trưa. Địa thế không mấy rậm rạp, đủ che chắn, tầm nhìn tốt lý tưởng cho hành quân thám sát và tác chiến. Thiếu úy Điệp đang căn lại bản đồ, đánh dấu vị trí trái mìn M14 để báo cáo... Có thể toán chưa bị lộ tung tích. Vì nếu địch theo dấu di chuyển của chúng tôi ắt hẳn mìn phải nổ. Vội vàng di chuyển sau ăn trưa, toán tiến dần vào mục tiêu qua đi những đường mòn chằng chịt, lúc hướng này lúc hướng kia. Mọi sự đều suông sẻ, ánh mặt trời đã bị mây mù che khuất. Để ý thấy một địa điểm thuận tiện ra dấu hiệu cho máy bay. Toán dừng lại, chờ đêm tối. Có tiếng hú đáp lại sau tiếng hú gần đây ngân dài. Trong ánh sáng lờ mờ lành lạnh... Một hồi lâu ngồi nghe ngóng... Trung sĩ Quang gài trái Claymore phòng thủ. Trời đêm đen kịt, không trăng sao, chỉ còn tiếng thú rừng kêu, hú thênh thang, diệu vợi. Cảm tưởng như ở chốn ma quái, âm ty... Qua làn gió buốt lạnh, thu mình vào cái áo đi mưa, cố dỗ dành giấc ngủ.
Thức dậy vào lúc trời còn tối đen, tiếng gà gáy dồn dập, nhìn đồng hồ mới năm giờ sáng, nằm im bất động, suy tính việc ngày mới... Đúng kế hoạch hành quân. Sáng nay một cuộc không kích vào mục tiêu rồi tạo dựng giả định bốc toán ra khỏi khu vực, cốt để đánh lừa địch. Mặt trời đỏ lừ từ từ leo lên đỉnh núi. Bầu trời bỗng quang đãng, những đám mây đen nhỏ như vẩy con tê tê. Ca nước sôi cũng vừa nấu xong được đổ vào hai bịch gạo sấy, thêm ít nước lạnh cho vừa. Rồi ca cà phê thơm phức và một điếu Capstan cho phép...Tôi như quên đi thực trạng trong tiếng chim lao sao mừng ngày nắng mới. Đàn khỉ the thé, khịt khịt đuổi nhau trên cành cây. Ngay bên dưới một con trăn to lớn dài ngoằng cố leo lên cành cây to, hướng về đàn khỉ trên cao...Tháo trái Claymore phòng thủ. Toán di chuyển ... Tiếng ì ì quen thuộc của Covey nghe rõ dần. Thiếu tá Phát đang gọi toán, tôi trả lời và chuyển ngay bức điện báo cáo tình hình... Hai chiếc F100 Super Sabres bay vòng gầm gừ trên cao. Covey gọi toán và xin mở cửa sổ (ý muốn thấy vị trí toán). Ra dấu cho Trung sĩ Quang, hắn bắt đầu chiếu gương. mặt trời chếch ngang mặt, cố gắng lẩn tránh những đụn mây đen lì lợm. Ngọn núi cao phía đông, đỉnh chỏm trắng xóa mây mù bấu chặt, chỉ cách ánh mặt trời trong gang tấc.
- Tango echo đây papa kilo thấy vị trí của bạn rồi, mục tiêu hướng bắc cách khoảng 1000 mét. Yên tâm, chúng tôi bắt đầu vũ điệu Disco. Toán di chuyển trong tiếng bom đạn dậy đất trời, đợt tấn công thứ ba của máy bay chúng tôi đã nghe tiếng phòng không... Tiếng nổ chắc đục cách bắn như dè dặt sợ tốn đạn và có âm vang xa rộng. Chiếc Covey bay cao nhưng chậm chắc chắn là đang cố sức phát hiện mọi hoạt động của địch. Tôi báo cáo đã nghe tiếng phòng không nhập trận ngay tại vị trí đang oanh kích. Khu rừng tre hiện ra trước mặt. Xẹt qua đầu chúng tôi. Chiếc F100 cắt một lúc ba trái bom. Có lẽ hắn đã thấy được mục tiêu phòng không...Trên cao hai viên đạn xanh chỉ điểm đang vút lên máy bay. Một tiếng nổ ầm của động cơ phản lực, chiếc F100 tăng tốc vút thẳng lên cao. Những tiếng nổ rung rinh mặt đất...Châu đang so lại địa bàn bởi phải tránh những bụi gai dầy đặc. Thiếu úy Điệp đưa tay chỉ những mụt măng be bét trong bụi tre. Tôi cười lắc tay không sao đó là thú rừng. Còn nếu là người bẻ thì bằng bặn và gọn ghẽ. Qua khỏi được khu rừng tre, tiếp đến những gốc chuối chen nhau với cây rừng. Một cây cổ thụ to lớn dễ chừng phải vài người ôm mới hết vòng, tỏa những dây leo chằng chịt xuống tận gốc...Từ ngọn cây lao xao tiếng chim ca hót và trên cành cây lũ khỉ thi nhau chuyền cành. Hai chiếc F100 đã xong nhiệm vụ, trả lại yên tĩnh cho núi rừng, chỉ còn thi thoảng tiếng súng báo hiệu hay liên lạc của địch quanh đây. Âm thanh quen thuộc của Covey đang trở lại. Tiếng trực thăng khiêm tốn theo sau...Giai đoạn hai sắp được thực hiện. Ngồi nghỉ chúng tôi binh thản xem tuồng...Phút chốc đoàn trực thăng đã ở trên đầu. Hai chiếc Huey Gunship và bốn chiếc UH1 Huey được biệt phái từ Không quân Mỹ, dáng bè to, thấp sơn mầu ghi đậm truyền thống Không quân.Trận xạ kích bắt đầu rocket, tiếp sau khẩu 20 ly nổ dòn vào vị trí mà hôm qua chúng tôi xâm nhập. Sau đợt xạ kích thứ ba, một chiếc Huey tách đàn lao xuống. Hỏa lực trên Gunship hộ tống vãi đạn như mưa...Bằng suy đoán, theo tiếng trực thăng mà khi thấy khi không, diễn tiến tuần tự như quen thuộc và hình ảnh hiện lên trong trí chẳng mấy khác với tận mắt chứng kiến...Trực thăng đang dần lên trông thấy rõ bốn Biệt kích đang
tòng teng trên dây câu. Gunship thứ hai đang đổ xuống những thép và lửa cùng tiếng phóng rocket xèn xẹt...Bốn Biệt kích đã an toàn trên cao. Đoàn trực thăng đang lập đội hình để bay về căn cứ với bốn Biệt kích...Bằng hình nộm...Chắc chắn họ sẽ mang cất lại vào trong kho...Chúng tôi nghe thấy xung quanh súng bắn truyền tin cùng lúc của địch...Kế nghi binh đã có hiệu quả. Địa thế hiểm trở bởi đá và dốc dưới những tàn cây cao xòe rộng, đường di chuyển mỗi lúc một lên cao làm trì nặng đôi chân, mặt trời vào trưa, ánh sáng chỉ đủ xuyên qua kẽ lá bởi làn gió lay động trên tàn cây, tạo sự lung linh, lấp lánh. Lẫn trong cái không gian mờ ảo ấy là những làn gió lạnh buốt từ dẫy đồi thấp thoai thoải chạy dài xa tít dưới chân... Một bóng mây đen xuất hiện di động dần lên in trên tầng cây xanh thẫm từ phía đồi ngang bên. Trung sĩ Quang thay Châu đi đầu, bốn đứa tôi lặng lẽ tựa bóng ma trơi di động trong cái âm u, tĩnh lặng quanh âm thanh huyền ảo của núi rừng. Trung sĩ Quang đưa tay ra dấu ngừng lại. Tiếng người ho nghe một rõ, rồi tiếng trò chuyện dần đi lên. Bây giờ đã nghe rõ bước chân "Này Thái, câu gì mà cậu vẫn thường ngâm của ông Quang-Dũng, tớ nghe hay lạ ngâm lại đi cho tớ nhớ..."

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà-nội dáng Kiều thơm

Tiếng ngâm trầm buồn, cảm xúc...Tại nơi hiu quạnh này, chúng tôi nghe không phải chỉ một lần, nhưng ba lần ngâm lại trầm bổng, nhỏ dần theo bước chân, gío chen vào, tiếng núi rừng hào nhịp vào mộng mơ đời thường. Cái sự buồn uể oải trong chất giọng gần như vuột khỏi ước mơ...Xem ra chỉ còn sự tẽn tò...Nuốt nước miếng!.
Sau khi hội ý, toán quyết định lên thám sát con đường. Thiếu úy Điệp và tôi nhẹ nhàng tiến lên, được khoảng bốn, năm mét một con đường quá là rộng ập vào mắt. Lá cây rừng không phủ hết được mặt đường, dấu vết bánh xe đạp và dấu chân đi dép ấn xâu xuống mặt đường còn in rõ... Điệp lấy vội máy ảnh ra chụp...Rút về, bàn tính, không còn cách nào khác sau khi đã căn lại bản đồ. Toán vượt qua con đường. Ngồi nghỉ mệt bên tảng đá, có tiếng hú sau lưng từ con đường cất lên, theo sau là những lao xao tiếng người nói cười đùa giỡn...Nắng quá trưa tự dưng in rõ trên tàn cây cao rậm, phút chốc tắt đi trả lại mầu xanh đen thẫm, bên dưới đồi một làn mây trắng mỏng như cố nhô lên...Nghĩ bụng càng nhanh càng tốt chúng tôi vội rời xa con đường. Súng địch bắn báo hiệu cho nhau âm vang hẳn núi rừng... Một áp lực đang đè nặng mà chả ai bảo ai đều thể hiện trên gương mặt. Toán cố di chuyển thật êm cả buổi chiều bằng sự cẩn thận, trong trạng thái bất an, nôn nóng. Trời tối mờ mờ, chúng tôi ngồi ăn cơm và nghe động tĩnh. Thấy êm, di chuyển kiếm chỗ ngủ đêm quanh một tảng đá. Trung sĩ Quang đã gài xong trái mìn Claymore, cũng là lúc bóng đêm bao trùm. Bôi thêm thuốc trừ muỗi, quanh đây chỉ còn tiếng côn trùng và tiếng thú từ xa vọng lại...Kéo áo đi mưa đắp lên người tôi cố để đi vào giấc ngủ bằng hình dung bầu trời xanh ngắt, cao tít ngàn sao...Trước lúc ngủ, nghe thấy quanh đây có tiếng trở mình ,thở dài...Một con chim lợn đi ăn đêm, tiếng kêu thê lương. Thức dậy vào lúc trời còn tối, duỗi chân cho đỡ mỏi rồi nằm nghe gà gáy. Một làn gió đưa cái lạnh ập đến, bất giác rùng mình. Trong cái tỉnh lặng đen như mực bao quanh, tự nhiên tôi co người lại tay cố kéo đắp chặt thêm chiếc áo mưa, giật mình vì tiếng cười như ma trêu phát ra từ chỗ ngủ của Châu, tức mình tôi chép miệng " Mẹ lại mơ thấy con ghệ nào rổi "Âm thanh tiếng cười như xoáy vào khoảng không rồi dội lại tạo một nỗi kinh dị trong trí mà tôi muốn thu xâu dán người sát đất... Đã có tiếng cựa mình thức giấc của đồng đội và tiếng Quang lầm bầm "Đù mẹ, ngủ cười chi rứa..."  Theo sau là cái đá chân... Thêm một tiếng ú ớ nữa Châu mới tỉnh bật dậy. Cảnh vật mờ mờ rồi rõ hẳn, phút chốc tạm quên những suy nghĩ vẩn vơ. mọi người lục đục đun nước chế vào bịch gạo ăn trong ngày xong pha cà phê...Hút thuốc trong áo mưa trùm sát đất... Trung sĩ Quang vừa tháo xong trái mìn Claymore. Điệp đưa bức điện tin cho tôi và đang cùng Châu tính hướng đi. Tôi nhắc Quang nhớ gài lại hai trái mìn M14 trước khi di chuyển để chống theo
dõi... Toán lên đường cũng vào lúc mặt trời lú lên đỉnh núi mờ từ
xa... Máy bay đã lên bao vùng, tiếng động cơ quen thuộc từ hướng đông vọng lại. Tôi bật máy chờ đợi. Tiếng gọi từ Covey vang trong máy... Đại úy Vỹ (Nguyễn-cao-Vỹ) trên phi cơ. Chuyển ngay bức điện. Toán chúng tôi ngồi chờ lệnh. Tiếng súng nổ phát một tứ phía truyền tin cho nhau... Đáng chú ý là hướng mà toán dự định đi tới. Tiếng gọi của Đại Úy Vỹ lại vang lên. Tôi nhận bức điện và chuyển ngay cho mọi người "Tiếp tục nhiệm vụ thám sát, yên tâm máy bay ứng chiến 100%" Vậy là đề nghị oanh kích đã không được chấp nhận... Chiếc Covey đã bao vùng khác, tiếng động cơ nghe rất nhỏ. Toán tiếp tục vào mục tiêu... Đàn chim bay xà xuống rượt đuổi nhau rồi lại vút lên cao. Đường dốc và đá lởm chởm đã làm sự di chuyển thêm khó khăn. Lắng tai nghe, gần như có tiếng động cơ xe chạy phía sau. Thiếu úy Điệp ra lệnh dừng lại để nghe ngóng lượng tình hình. Qủa đúng, tiếng động cơ mỗi lúc một rõ. Một tiếng gầm rú như xe đang lên dốc mà chở nặng... Ngồi bất động bên một gốc cây, chúng tôi im lìm chờ đợi tình hình... Chính xác là trên con đường hôm qua. Địch đang gọi nhau, lao xao bên cạnh tiếng ì ì nặng nề của xe. Con đường nghe ngâm thơ ngày hôm qua, giờ đang náo nhiệt. Vẻ chậm chạp  di chuyển của địch làm chúng tôi sốt ruột...Ánh sáng từ cao chiếu xẹt tia nắng bởi luồng gió lốc ào ào trên tàn cây. Toán quyết định trụ lại để xem chừng hướng đi tới của đoàn xe địch. Tiếng xe và tiếng người mỗi lúc càng gần như sắp đâm thẳng vào chúng tôi. Con đường cong vòng ra sườn núi. Thấp thoáng đã thấy cành lá di động theo tiếng xe. Mọi cặp mắt chúng tôi chăm chú theo dõi và rồi đến một khoảng cây thưa thấp. Mầu áo xanh bộ đội hòa cùng cây lá như bóng âm binh nhảy múa. Chúng tôi giật mình vì đang ở sát bên con đường mà không biết...Hai chiếc xe đã đi qua và đang có vẻ lại lên dốc hòa lẫn tiếng hò dô như người đang trợ lực cho xe. Thiếu úy Điệp đang ghi chú trên bản đồ đánh dấu vị trí con đường. Tiếp tục di chuyển trong tiếng xe nhỏ dần...Một con đường vận chuyển ngang sườn núi hướng nam bắc, chân bước mà lòng cứ mãi nghĩ và đặt ra nhiều giả thuyết...Áp lực thật nặng nề, bởi lâu lâu tiếng người hú gọi nhau...Mạn rừng này dễ di chuyển, nhưng khó thở... Một con chim xà xuống tíu tít liên hồi như gặp gì cấp bách. Châu và Điệp cùng ngồi xuống tay ra hiệu dừng lại. Tiếng người ho...Đúng như dự đoán, con chim trên cành gặp khách lạ. Một giọng người cất lên trong hai tay để sát miệng làm loa "Hú hú Mấm ơi, về ăn cơm" và rồi lại quay sang hướng
khác lập lại, giọng đi về phía trước. Tiến thoái lưỡng nan... Bên đông là con đường xe, bên tây là địch...Chỉ còn liều mạng tiến lên. Tôi ra dấu ở đây nguy hiểm rồi phất tay đi về phía trước. Đường đi bị chắn ngang bằng những tảng đá to lớn dị thường cao bằng nóc nhà... Như lạc vào mê cung, toán dừng lại quan sát động tĩnh. vẻ
yên lặng giờ này nghe rõ tiếng thở của bốn người. Một hồi kẻng vang lên không xa, rồi tiếng người lao xao nói cười. Tôi bảo Điệp soạn ngay bức điện báo tình hình và yêu cầu oanh kích... Nhìn địa thế nơi đây chiến đấu tốt. Tôi bật máy liên lạc Covey... Gọi đến năm sáu lần, tiếng Covey trả lời có vẻ hơi yếu, có lẽ đang bao vùng ở xa. Tôi chuyển bức điện yêu cầu rồi chờ đợi... Ăn vội bữa cơm, bên dưới kia tiếng lao xao không dứt như càng lúc tụ hội càng đông. Lại tiếng kẻng vang lên theo sau tiếng hô gì đó...Tình hình lúc này, chúng tôi có vẻ quen dần, không còn sợ để đổ mồi hôi như trước...Nửa tiếng trôi mau, trong máy Covey đang gọi. Tôi trả lời và nhận ngay một điện tin... Điệp đang dịch lại bằng khóa mật mã... Lời yêu cầu được chấp nhận. Toán chuẩn bị mục tiêu oanh kích trong thời gian ba mươi phút nữa...Thế có nghĩa là sự phối kiểm tin tức tức tại Trung-tâm hành-quân...Tin giữa toán và các máy từ Trung-tâm tác-chiến điện tử phù hợp nhau...Toán di chuyển nhanh
tìm địa điểm thích hợp. Hai chiếc F4 đang bay vòng trên cao cũng là lúc chúng tôi có được địa điểm chiến đấu tốt và dễ dàng ra hiệu cho máy bay. Chiếc Covey đang bay trên đầu gọi toán xin mở cửa sổ. Tôi ra hiệu cho Điệp...Ánh sáng chiếu thẳng từ gương lên máy bay.
- Indian Alpha (tên toán) Tôi thấy bạn rõ, xin cho ngay mục tiêu.
- Kilo hotel (tên Covey) đây Indian Alpha. Mục tiêu hướng tây cách
chúng tôi ba trăm mét.
- Indian alpha, hãy cho tôi biết đã đúng mục tiêu chưa?
Covey xà xuống trái rocket được bắn ra và một cột khói trắng bốc lên. Máy bay đang nghiên lao vút lên...Tiếng lao xao của một số đông người kèm theo tiếng kẻng đánh gấp rút, người ta đang hú gọi nhau cùng lúc những đàn chim bay táo tác tìm chỗ ẩn.
- Kilo hotel, kéo về hướng đông một trăm mét.
- OK Indian alpha, ẩn núp cho kỹ, mục tiêu rất gần với anh... Cho panel đỏ hồng.
- OK Kilo hotel, xin cho tác chiên, toán sẵn sàng, đã có panel theo yêu cầu. Covey bắn trái rocket thứ hai, tiếp ngay sau chiếc F4 lao xuống gầm thét loạt đại bác và cắt một lúc hai trái bom. Kinh thiên động địa, tiếng nổ tạo chấn động đến tức cả ngực, khói lửa bao trùm trước mặt và từ từ cuộn lên cao. Chiếc F4 đang trên cao như xem kết quả và chờ lệnh Covey... Bất chợt sau lưng tiếng ầm vang, xẹt qua đầu ngọn cây và hàng bom trút xuống bên dưới lửa khói lan tràn... Loạt napalm đang thiêu hủy mục tiêu, theo sau là những tiếng hét la vang dội góc rừng và tiếng súng của địch bắn lên... Chiếc F4 vừa ghim thêm ba trái bom và đang lao lên bằng tiếng gầm rú của động cơ phản lực... Giật mình nghe rõ tiếng súng bắn phầm phầm, nhát gừng, chậm rãi không bắn từng loạt... Nhìn ra chiếc F4 kéo theo sau hàng khói đen và kìa chiếc dù đang tòng teng kéo chiếc ghế của phi công. Một tiếng nổ vang trời dội đến, ngoài xa cột khói bốc cao.
- Kilo hotel đây Indian alpha, khẩu phòng không đang ở hướng bắc cách chúng tôi 300 mét.
- Indian alpha nhận rõ và sau đây cho biết ý kiến. Đảo nửa vòng chiếc Covey từ trên cao phóng trái rocket xuống mục tiêu vừa được chỉ dẫn. Nhìn làn khói bốc lên tôi ước lượng.
- Kilo hotel, kéo về hướng nam 150 mét.
- Indian alpha, quá gần vị trí của bạn, bạn thấy thế nào cho biết. trả lời...
- Kilo hotel, không sao đã có những hàng đá bảo vệ...Chơi đại đi.
Thế rồi theo sau trái khói chỉ điểm lần hai, chiếc F4 còn lại mở một
lúc bốn trái bom... Liên tục tiếng tiếng nổ động trời...Một luồng kình lực mạnh khủng khiếp dồn ép, dội đến...Rất khó thở và đau đau ở ngực...Nhưng trước bom nổ, tiếng phòng không rất rõ, nặng nề và tròn ấm vang dội. Đảo một vòng trên cao chiếc F4 như người lữ hành ngắm cảnh nhìn Covey đang săn sóc người phi công mới đáp đất... Nhàn nhã chẳng bao lâu...Chiếc F4 đang hung hăng như điên tiết lao xuống. Một loạt đại bác và thêm những trái bom thả ra từ bụng... Máy bay cứ tầm thấp mà bay rồi mới tăng tốc vụt lên. Bên dưới lửa văng xa lan rộng. Chỗ nằm của chúng tôi, đột nhiên sức nóng lan tỏa nhanh, tôi còn cảm thấy tóc trên đầu nong nóng... Thời gian như ngừng lại, trận địa bỗng yên tĩnh lạ...Gió ở đâu lốc từng cơn. Mặt trời bị che bởi cơn mây đen. Ánh sáng phản chiếu từ chiếc Covey đang săn sóc người phi công, trên trời cao chiếc F4 vòng vòng và bên dưới này chúng tôi hoang mang chờ diễn tiến.
- Indian alpha đây Kilo hotel, tôi sẽ đến với bạn trong tích tắc,
phiên làm việc mới của tôi...Bạn đã nhận ra tôi chưa?. Tiếng nói của Đại úy Vỹ (Nguyễn cao Vỹ) trên phi cơ và chiếc O2 xuất hiện theo sau bốn trực thăng càng lúc càng gần. Hai A1 Skyraider đồng hiện diện...Chiếc F4 mất bạn đang lẻ loi trên cao, có thể anh ta cố
chờ xem trực thăng cứu viên phi công để yên tâm trở về. Một chiếc F100 vừa lên từ vị trí phi công lâm nạn và cái bóng trực thăng đang lên cao. Viên phi công đã được cứu.
-India alpha, xin cho biết tình hình.
- Kilo hotel tôi đã bị lộ diện, yêu cầu triệt xuất vì áp lực địch bao
quanh. Cho đánh phá mục tiêu hướng tây 300 mét và mục tiêu hướng bắc 300 mét. Covey lao xuống mục tiêu hướng tây nhìn trái khói trắng bốc lên, tôi gọi.
- Kéo về hướng đông 100 mét.
Trái khói thứ hai đúng mục tiêu...Chiếc F100 xuống với thép và lửa bao trùm khu vực và địch đồng loạt súng nổ bắn đuổi theo máy bay
Chiếc O2 Covey vừa hoàn chỉnh mục tiêu thứ hai và đang bốc ngược lên. Tiếng đại bác 20 ly dòn dã và rồi từ chiếc A1 Skyraider thêm loạt bom chùm (cluster) như đàn ong bị vỡ tổ dăng dăng lao chụp xuống mục tiêu... Covey hoàn thành xong màn chỉ điểm đang ung dung trên kia điều nghiên oanh kích. Tôi vẫn nghe rõ mọi điện đàm giữa Covey và máy bay oanh kích, đôi lúc có tiếng của Đại úy Vỹ chen vào... Trận địa lại trở nên sôi động. Gio hất lên quật lại cái mùi khét của bom đạn. Tiếng nổ dữ dội động địa của bom hủy diệt và trước mặt hướng bắc lửa chạy dài bởi bom napalm. Chúng tôi nằm đây chứng kiến xung quanh cảnh địa ngục và địa ngục nếu có thì chắc cũng chì như thế.
- India alpha, tôi đã trúng đạn...
Hoảng hốt ngẩng đầu nhìn lên, chiếc O2 như một cột khói đen xì lao thẳng xuống đất. Không thấy cái dù của phi công... Qủa thật nhìn cuộn khói lúc máy bay rớt... Bị bắn ngay đầu, họ chẳng kịp nhảy dù... Không như loại OV10 sử dụng loại ghế thoát hiểm tự động. Chiếc O2 trường hợp khẩn phi công phải mở cửa nhẩy dù... Sự bạo tàn của cuộc chơi chiến tranh, với ai cho là thích thú, riêng tôi lúc này lòng chán nản, dạ hoảng kinh như đang ngồi trên lửa. Mọi liên lạc đã bị cắt đứt. Toán nằm bẹp chịu trận...Hai bên mục tiêu ba máy bay oanh kích vẫn tiếp diễn những màn bổ nhào trút xuống bom đạn. Tôi tự hỏi và nghĩ lại, không nghe tiếng phòng không sao chiếc O2 vô cớ lại bị trúng đạn...Một bí mật nào đó cần được sáng tỏ bởi nhân viên phòng Hành-quân... Ba máy bay lúc này thay đổi chiến thuật... Không oanh kích dồn dập mà quan sát
kỹ mục tiêu rồi mới tấn công. Hiển nhiên cũng như chúng tôi đang chờ một sự gì đó... Hướng tây sau cái bốc lên như mũi tên, máy bay F100 dựng đứng rồi tiếng nổ loại bom 500 cân rung chuyển mặt đất bắn tung lên rất cao bụi đất và khói lửa mịt mù... Tiếp sau hàng loạt tiếng nổ long trời to rồi nhỏ, nhỏ rồi lại to xen kẽ... Kho đạn dược của địch trúng bom phát nổ... Mặt đất liên tục rúng động, áp lực không khí đè nặng gây khó thở. Thiếu úy Điệp mặt xanh tái ngửa cổ hít thở, miêng giơ ra cái răng khểnh như nanh. Trần Quang đã đen giờ lại đen thêm. Châu tay ôm lấy ngực mặt nhăn nhó...Tiếng xè xè trong máy làm tôi bừng tỉnh, sau cái ảo ảnh dấu hết...Mặc, tôi đứng bật lên tay chân làm động tác thể dục, hít thở nhẹ nhàng cảm thấy thoải mái... Ngồi xuống tiếp tục chịu trận. Trong máy đã có tiếng gọi tên, chụp vội cái ống nghe tôi trả lời... Một sự trấn an, năm phút nữa tôi sẽ đến... Kho đạn của địch vẫn ầm vang không dứt thi thoảng có tiếng nổ lớn rung động...Hai chiếc A1 vẫn dán sát vào mục tiêu phía bắc đặt súng phòng không...Nhưng tới giờ phút này chúng tôi không còn nghe tiếng súng phòng không. Họ đang cố gắng tìm vị trí đặt súng, chiến thuật tấn công và phát hiện đang được áp dụng. Covey đang trên đầu gọi tôi. "India alpha đây Kilo hotel, chuẩn bị triệt xuất bằng câu dây...rõ trả lời." "Kilo hotel, toán đã sẵn sàng". Hai đai dây dù qua háng đã được chúng tôi gài vào đúng vị trí của nó, trở thành liền lạc ôm lấy người từ vai đến qua mông...Ngưới ta thiết kế riêng cho cái dây đeo đạn và bình nước bằng dây đai dù dẹp bản, mà khi sử dụng để câu dây thì chỉ gài móc hai sợi dây dù qua háng. Đoàn trực thăng bay trên cao, thêm hai A1 đang bay song song như anh em sinh đôi. Sáu Kingbee, bốn UH1 Huey và hai Huey Gunship... Covey bay thấp đang cố phát hiện xác chiếc O2... Quần đảo nhiều vòng, hai chiếc Gunship đang xạ kích loạt rocket đầu tiên xuống mục tiêu phía bắc. Một chiếc Huey tách đàn. theo sau chiếc Gunship yểm trợ đến thẳng chỗ chúng tôi. Từ trực thăng bốn sợi dây câu được thả xuống. Móc hai cái móc sắt từ hai vai vào móc dây câu... Thiếu úy Điệp nhìn kiểm soát xong, ra hiệu trực thăng bốc lên... Loạt đại liên và đạn M79 (40ly) tự động cày phá dưới đất... Từ bầu trời nhìn về phía Covey vẫn đang có vẻ chưa tìm thấy xác chiếc O2. Sáu chiếc Kingbee bay trên cao như chờ lệnh... Thế rồi càng lúc càng xa theo trực thăng bay thả chúng tôi về nơi xuất phát... Căn cứ Quảng-trị. Trực thăng Kingbee đang lần lượt đáp xuống bãi. Đổ xuống Trung đội gác đài tiếp vận Hickory... Người ta điều động ngay Trung đội không tác chiến này vào việc gấp rút lấy xác phi công bị rơi. Toán chúng tôi được lệnh trở về CCN Đà nẵng, sáu chiếc Kingbee sẵn sàng đưa chúng tôi về... Hỏi người xạ thủ (Mê vô) trên Kingbee. Anh ta nói rằng rừng quá rậm nên chưa thể lấy xác người phi công và Đại úy Vỹ, sĩ quan không thám... Một nỗi buồn chợt đến như thay lời vĩnh biệt Đại úy.

Hải Đen Chiến Đòan 1 Xung Kích